Thưa ông, liên tiếp trong những năm gần đây, nhất là 4 tháng đầu năm 2018, kim ngạch XK của Việt Nam đã có sự tăng trưởng ngoạn mục. Ông nhìn nhận như thế nào về kết quả này?
XK trong những năm gần đây được đánh giá là điểm sáng của nền kinh tế nước ta, ngày càng đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, nhất là trong năm 2017, kim ngạch đạt tới 214 tỷ USD.
Cơ cấu thị trường XK đang chuyển biến theo hướng tích cực. Doanh nghiệp (DN) trong nước đã mở được những thị trường XK ở xa, như: Mỹ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu. Chênh lệch về kim ngạch XK giữa các thị trường truyền thống và thị trường mới không quá lớn, giúp chúng ta không bị quá phụ thuộc vào một khu vực nào. Bên cạnh đó, cơ cấu hàng hóa XK cũng có những thay đổi với những mặt hàng có hàm lượng giá trị gia tăng cao, như: Máy tính, điện thoại, chip điện tử... Nhiều mặt hàng trước đây không nghĩ có thể có kim ngạch XK tăng trưởng nhanh, nhất là nhóm hàng nông sản, nay đã xuất hiện ngày càng nhiều, giúp người dân, đặc biệt là nông dân phát triển sinh kế.
Đặc biệt, cán cân thương mại đã có sự đảo chiều ngoạn mục. Nếu như trước đây, nước ta chủ yếu nhập siêu và mục tiêu đặt ra đến 2020 mới cân bằng được cán cân thương mại thì năm 2017, cả nước đã xuất siêu 3,9 tỷ USD còn năm 2018, chỉ 4 tháng đầu năm xuất siêu đã đạt gần con số đó. Kết quả này giúp nguồn dự trữ ngoại tệ của Việt Nam tăng đáng kể, góp phần làm cho nền kinh tế ngày càng bền vững.
Đây là kết quả tích luỹ từ nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy XK, từ đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế… đến các giải pháp, hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất tập trung, cánh đồng mẫu lớn… Đặc biệt là chủ trương đẩy mạnh hỗ trợ DN nhỏ và vừa, coi DN nhỏ và vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế của nhà nước, cùng với đó là tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo... Những yếu tố cộng hưởng này làm cho hoạt động XK có sự khởi sắc.
Bên cạnh những thành công ấn tượng kể trên, theo ông còn có nhược điểm nào cần khắc phục?
Nhược điểm lớn nhất trong XK là chúng ta xuất siêu sang các thị trường "khó tính" như: Mỹ, Nhật Bản… nhưng lại nhập siêu ở những thị trường gần hoặc có trình độ phát triển không cao. Bên cạnh đó, xuất siêu chủ yếu ở khối DN FDI, còn DN có 100% vốn trong nước lại nhập siêu, cho thấy DN 100% vốn trong nước còn yếu kém.
Nhìn vào cơ cấu hàng hóa XK, chúng ta thấy rằng, nhiều mặt hàng XK trong nước sản xuất, nhất là nông sản, dệt may, da giày… dù có giá trị XK cao nhưng giá trị gia tăng không lớn. Các mặt hàng nông sản vẫn XK dưới dạng nguyên liệu thô thay vì chế biến sâu để nâng cao giá trị, thương hiệu Việt. Thêm nữa, dù nhiều hiệp định thương mại tự do đa phương và song phương đã được ký kết, song nhận thức của cộng đồng DN trong việc tận dụng lợi thế có được từ các hiệp định đó còn rất hạn chế, thậm chí không tận dụng được trong quá trình mở rộng thị trường XK.
Vậy, theo ông, giải pháp nào để chúng ta duy trì đà tăng trưởng XK và xuất siêu bền vững?
Tôi cho rằng, năm nay, tăng trưởng XK của Việt Nam có khả năng sẽ đạt mức trên 20%, nhưng muốn đạt kết quả này đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn.
Kịch bản khả dĩ nhất, là chúng ta tận dụng được các hiệp định thương mại tự do với các nước… để kêu gọi đầu tư, nhập khẩu những công nghệ tiên tiến vào sản xuất tạo thay đổi cơ bản, cơ cấu lại trình độ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt. Cùng với đó, nhà nước cần hỗ trợ nhiều và hiệu quả hơn nữa đối với các DN nhỏ và vừa, DN khởi nghiệp, tạo ra hàng hóa XK có hàm lượng giá trị gia tăng cao.
Xin cảm ơn ông!